Then Ven. Punna went to the Blessed One and on arrival, having bowed down to the Blessed One, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One:
-"It would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief so that, having heard the Dhamma from the Blessed One, I might dwell alone in seclusion: heedful, ardent, & resolute.


Rồi Tôn giả Punna đi đến Thế Tôn. Sau khi đến đănh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Punna bạch Thế Tôn:
-" Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một ḿnh, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần."

 

There are, Punna, forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. If a monk relishes them, welcomes them, and remains fastened to them, then in him — relishing them, welcoming them, and remaining fastened to them — there arises delight. From the origination of delight, I tell you, comes the origination of suffering and stress.


Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, an trú luyến trước; do vị ấy hoan hỷ sắc ấy, tán dương, an trú luyến trước, hỷ (nand́) sanh. Này Punna, Ta nói rằng: "Do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi".

 

-There are sounds cognizable via the ear...
-Aromas cognizable by the nose...
-Flavors cognizable via the tongue...
-Tactile sensations cognizable via the body...


-Có những tiếng do tai nhận thức...
-Có những hương do mũi nhận thức...
-Có những vị do lưỡi nhận thức..
-Có những xúc do thân nhận thức...

 

There are ideas cognizable via the intellect — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. If a monk relishes them, welcomes them, and remains fastened to them, then in him — relishing them, welcoming them, and remaining fastened to them — there arises delight. From the origination of delight, I tell you, comes the origination of suffering and stress.


Có những pháp do ư nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương, an trú luyến trước; do vị ấy hoan hỷ pháp ấy, tán dương, an trú luyến trước nên hỷ sanh. Này Punna, Ta nói rằng: "Do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi".

 

There are forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. If a monk does not relish them, welcome them, or remain fastened to them, then in him — not relishing them, not welcoming them, not remaining fastened to them — there arises no delight. From the cessation of delight, I tell you, comes the cessation of suffering and stress.


Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không an trú luyến trước; do vị ấy không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không an trú luyến trước nên hỷ đoạn diệt. Này Punna, Ta nói rằng: "Do hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn diệt"

 

-There are sounds cognizable via the ear...
-Aromas cognizable by the nose...
-Flavors cognizable via the tongue...
-Tactile sensations cognizable via the body...


-Có những tiếng do tai nhận thức...
-Có những hương do mũi nhận thức...
-Có những vị do lưỡi nhận thức..
-Có những xúc do thân nhận thức...

 

There are ideas cognizable via the intellect — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. If a monk does not relish them, welcome them, or remain fastened to them, then in him — not relishing them, not welcoming them, not remaining fastened to them — there arises no delight. From the cessation of delight, I tell you, comes the cessation of suffering and stress. {By this means, Punna, you are not far from this doctrine and discipline.


Có những pháp do ư nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không an trú luyến trước; do vị ấy không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không an trú luyến trước nên hỷ đoạn diệt. Này Punna, Ta nói rằng: "Do hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn diệt".

 

Well then, Punna. Now that I have instructed you with a brief instruction, in which country are you going to live?


Này Punna, sau khi được nghe giáo giới với lời giáo giới vắn tắt này của Ta, Ông sẽ trú tại quốc độ nào?

 

Lord, there is a country called Sunaparanta. I am going to live there.


- Bạch Thế Tôn, có một quốc độ tên là Sunàparanta, tại đấy con sẽ ở.

 

Punna, the Sunaparanta people are fierce. They are rough. If they insult and ridicule you, what will you think?


Thô bạo, này Punna, là người xứ Sunàparanta. Độc ác, này Punna, là người xứ Sunàparanta. Nếu người xứ Sunàparanta, này Punna, chửi bới, nhiếc mắng Ông, thời này Punna, ở đây, Ông nghĩ thế nào?

 

If they insult and ridicule me, I will think, 'These Sunaparanta people are civilized, very civilized, in that they don't hit me with their hands.' That is what I will think, O Blessed One. That is what I will think, O One Well-gone.


- Nếu người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, chửi bới, nhiếc mắng con, ở đây, con sẽ nghĩ: "Thật là hiền thiện, người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, người xứ Sunàparanta này! V́ những người này không lấy tay đánh đập ta". Như vậy, ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Như vậy, ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.

 

But if they hit you with their hands, what will you think?


Nếu người xứ Sunàparanta, này Punna, sẽ đánh đập Ông bằng tay, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ nghĩ thế nào?

 

"If they hit me with their hands, I will think, 'These Sunaparanta people are civilized, very civilized, in that they don't hit me with a clod.'That is what I will think, O One Well-gone. "


- Nếu người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, đánh đập con bằng tay, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! V́ những người này không đánh đập ta bằng cục đất". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.

 

"But if they hit you with a clod, what will you think? ?"


Nhưng nếu người xứ Sunàparanta, này Punna, đánh đập Ông bằng cục đất, thời ở đây, này Punna, Ông nghĩ thế nào?

 

"If they hit me with a clod, I will think, 'These Sunaparanta people are civilized, very civilized, in that they don't hit me with a stick.'That is what I will think, O Blessed One. That is what I will think, O One Well-gone. "


- Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, đánh đập con bằng cục đất, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! V́ những người này không đánh đập ta bằng gậy". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.

 

"But if they hit you with a stick, what will you think?"


Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta, này Punna, sẽ đánh đập Ông với gậy, thời ở đây, này Punna, Ông nghĩ thế nào?

 

"If they hit me with a stick, I will think, 'These Sunaparanta people are civilized, very civilized, in that they don't hit me with a knife.' That is what I will think, O Blessed One. That is what I will think, O One Well-gone. "


- Nếu những người xứ Sunàparanta này, bạch Thế Tôn, sẽ đánh đập con với gậy, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! V́ những người này không đánh đập ta bằng kiếm". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.

 

"But if they hit you with a knife, what will you think?"


Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta, này Punna, lại đánh đập Ông bằng kiếm, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ nghĩ thế nào?

 

"If they hit me with a knife, I will think, 'These Sunaparanta people are civilized, very civilized, in that they don't take my life with a sharp knife.'That is what I will think, O Blessed One. That is what I will think, O One Well-gone."


- Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, đánh đập con với cây kiếm, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! V́ những người này không đoạn mạng ta với cây kiếm sắc bén". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.

 

"But if they take your life with a sharp knife, what will you think?"


Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta, này Punna, sẽ đoạn mạng Ông với lưỡi kiếm sắc bén, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ nghĩ như thế nào?

 

"If they take my life with a sharp knife, I will think, 'There are disciples of the Blessed One who — horrified, humiliated, and disgusted by the body and by life — have sought for an assassin, but here I have met my assassin without searching for him.' 1 That is what I will think, O Blessed One. That is what I will think, O One Well-gone."


Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, sẽ đoạn mạng con với lưỡi kiếm sắc bén, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: "Có những đệ tử của Thế Tôn, khi phiền năo, tủi hổ và ghê tởm bởi thân và sinh mạng đă sử dụng đến con dao. Nay dầu không t́m đến ta vẫn được sử dụng con dao". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.

 

Good, Punna, very good. Possessing such calm and self-control you are fit to dwell among the Sunaparantans. Now it is time to do as you see fit.


Lành thay, lành thay, này Punna! Đầy đủ với sự an tịnh tự điều này, Ông có thể sống tại quốc độ Sunàparanta. Này Punna, nay Ông hăy làm những ǵ Ông nghĩ là hợp thời.

 

Then Ven. Punna, delighting and rejoicing in the Blessed One's words, rising from his seat, bowed down to the Blessed One and left, keeping him on his right side. Setting his dwelling in order and taking his robe and bowl, he set out for the Sunaparanta country and, after wandering stage by stage, he arrived there. There he lived. During that Rains retreat he established 500 male and 500 female lay followers in the practice, while he realized the three knowledges and then attained total (final) Unbinding.


Rồi Tôn giả Punna hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, rồi bộ hành đi đến xứ Sunàparanta. Ngài tuần tự bộ hành và đến xứ Sunàparanta. Tại đây, Tôn giả Punna trú tại xứ Sunàparanta. Và trong mùa mưa ấy, Tôn giả Punna độ cho khoảng 500 cư sĩ. Cũng trong mùa mưa ấy, Tôn giả chứng được ba minh. Và cũng trong mùa mưa ấy Tôn giả Punna viên tịch.

 

Then a large number of monks went to the Blessed One and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As they were sitting there, they said to him, "Lord, the clansman named Punna, whom the Blessed One instructed with a brief instruction, has died. What is his destination? What is his future state?


Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn. Sau khi đến đănh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-"Bạch Thế Tôn, thiện gia nam tử Punna, sau khi được Thế Tôn giáo giới một cách vắn tắt, đă mệnh chung. Sanh thú của vị ấy là ǵ? Đời sau của vị ấy thế nào?"

 

Monks, the clansman Punna was wise. He practiced the Dhamma in accordance with the Dhamma and did not pester me with issues related to the Dhamma. The clansman Punna is totally unbound.


- Bậc Hiền trí, này các Tỷ-kheo, là thiện nam tử Punna. Sở hành là đúng pháp và thuận pháp. Vị ấy không làm phiền năo Ta với những kiện tụng về pháp. Hoàn toàn tịch diệt, này các Tỷ-kheo, là thiện nam tử Punna.

 

Note

1. In the origin story to Parajika 3, a group of monks search for an assassin after becoming disgusted with their bodies when taking the unattractiveness of the body as their meditation theme. The Buddha, on learning of this, convenes the remaining monks and recommends that if they find such unskillful, aversive attitudes arising in their meditation, they should switch to the breath as their theme. Thus — contrary to some interpretations of this discourse — it seems unlikely that Punna is here extolling the act of searching for an assassin as a skillful approach toward death. Instead, the gist of his statement is that if he died under the circumstances described here, death would have found him without his having sought for it through aversion. This would parallel the attitude toward death that the Theragatha frequentely attributes to arahants:

I don't delight in death,
don't delight in living.
I await my time
like a worker his wage.
I don't delight in death,
don't delight in living.
I await my time
mindful, alert.

Thag 14.1

This may not be life affirming in the American sense of the word, but it does affirm that the arahants have awakened to a release that transcends life and death. And that is the whole point of Dhamma practice. If there were nothing more important than life, then life itself would be pointless.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |